00000000L19
Đức Thầy giảng:
Đến đây chúng ta được dạo một bước, được bước lên một bước và chúng ta thấy rõ sự khó khăn của thế gian, sự khó khăn của Địa Ngục, sự khó khăn của Thiên Đàng mà đều do tâm của chúng ta, biết vun bồi thì chúng ta mới đạt. Mà chính chúng ta đã giam chúng ta ở dưới Địa Ngục mà chúng ta không hay. Tâm ác trược, mưu mô; ôm lấy cái không thành đạt mà cứ nằng nằng ôm cái đó, là cái đó thì bị xuống Địa Ngục. Còn thánh thiện ở thế gian, ở nhơn gian chúng ta biết dùng hòa khí sống với nhau, thương yêu trong tình huynh đệ cởi mở, sung sướng biết là bao nhiêu, từ đó chúng ta mới thấy Thiên Đàng. Đâu có thấy tôi hòa là tôi yếu đâu; tôi hòa là tôi mạnh, mà tôi xây dựng từ bi, tôi học từ bi, và xây dựng từ bi là tôi sẽ mạnh nữa, thì cửa Thiên Đàng đâu có xa.
Cái dũng chí của các bạn, lửa thiêu là cái gì? Lửa là trần trược, mà điển là nguyên linh, mà có cái lửa nào mà đốt tiêu điển được. Cái thanh điển là vượt bất cứ cõi nào. Các bạn đã gom từ ngũ tạng là lửa rồi, mà hướng thượng trên bộ đầu các bạn, lửa Trời rồi, mà xuất lên, được lên chỗ thanh cảnh là các bạn đã vượt qua rồi. Gom cái nguyên năng sẵn có, sáng suốt đó, và sự thanh nhẹ đó, mà chính chúng ta phải mở ra nó mới có; phải mở tất cả, hòa với Càn Khôn Vũ Trụ, hòa với tất cả mọi người, thương yêu tất cả mọi người. [01:47]
Nó có cái pháp rành rẽ là cho các bạn làm Pháp Luân, làm Pháp Luân Thường Chuyển để làm gì? Đem tất cả những sự thương yêu của cả Càn Khôn Vũ Trụ mà xây dựng cái bản năng ô trược này trở nên sáng suốt. Mỗi đêm các bạn làm, mỗi đêm các bạn chuộc tội, mỗi đêm các bạn khai thông, mỗi đêm các bạn tiến hóa, mà phải làm đúng. Nhiều người làm nhưng mà ý nghĩ về dục, hướng về dục là đại tội. Cho nên ở đây có khóa phải coi lại hết, coi lại cái Pháp Luân Thường Chuyển. Cho nên phía nam đã làm rồi, bữa nay phía nữ phải làm, phải học và phải học cho kỹ càng cái Pháp Luân Thường Chuyển rồi mới tận hưởng cái nguyên khí của Trời Đất. Hưởng được cái nguyên khí của Trời Đất thì các bạn có thể vượt qua bất cứ chỗ nào, không có sự ngăn cách nữa. Khi chúng ta đạt được sự ngăn cách rồi chúng ta mới thấy rằng giá trị của từ bi, từ bi là sức mạnh.
Đại Từ Bi đang quản lý tất cả, chiêu hồi tất cả; mà ở tất cả các nơi bất cứ chỗ nào cũng có Đại Từ Bi, chứ không phải đi thiệt xa mới tìm ra Đại Từ Bi.
Chúng ta biết yêu thương, biết rờ mó, biết lấy cái tay này rờ cái tay kia cảm thấy dịu dàng; đó là diệu pháp nằm ở trong đó, mà chính Ngài cũng ở trong đó. Chúng ta bị vô lễ, thất tín, thì bất chấp; bất chấp là bị phạt.
- Phạt ở chỗ nào?
- Không cần biết, tự đắc.
- “Ông Trời, tôi đâu có thấy mà nói Ông Trời phạt”.
- Ông Trời phạt!
- Phạt ở chỗ nào?
- Phạt ở chỗ tự đắc, rồi tự đề ra những cái việc kêu bằng suy bại tại thế, rồi bảo vệ cái việc suy bại đó, tự giam cái phần chơn thức của mình, ở tù không hay.
Nhưng mà bề ngoài nói: Chu cha, ta đây ngon lắm đâu có sợ Trời! Giàu quá rồi, bây giờ đất đai nhiều quá, tiền của nhiều quá; trí thức ta tràn đầy chiến thắng đối phương như không. Nhưng mà kỳ thật thua đối phương rõ ràng; đang chìm ở dưới đáy biển mà không thấy, không có lối thoát, càng ngày càng kẹt và không có phát triển, mà cho mình là hay! [04:18]
Cho nên trong này cũng có cắt nghĩa rõ ràng, cũng có nhắc nhở rõ ràng để cho mọi người đồng thức. Chứ cuốn Thiên Đàng Du Ký này không phải ích kỷ dành riêng cho một người nào, nhưng mà dành cho tất cả mọi người, và thấy rõ cái nguyên năng sẵn có của chính mình để tiến.
- Chúng ta ở đây vui. Chúng ta có cái cơ thể để sống, có nơi trú ngụ, có mọi sự nhàn hạ của ba cõi đã độ ta tiến tới sự tiêu dao cởi mở, sáng suốt, thanh quang đầy đủ, mà tại sao chúng ta không đạt được?
- Vì chúng ta lười biếng, ngu si, bảo vệ cái tăm tối, quên mình đi.
Làm cho đúng pháp! Khó tìm ra cái pháp, mà ngày nay có cái pháp rồi. Lấy cái nguyên năng của Càn Khôn Vũ Trụ giải hóa cái tâm thức của mình, cái gì quý hơn? Các bạn một ngày đi làm khổ cực này kia kia nọ, rồi các bạn về nhà, các bạn đâu có cần xin ai đâu, ngồi đó các bạn làm Pháp Luân Thường Chuyển nhẹ, nhẹ... Các bạn niệm Nam Mô A Di Đà Phật cho thân tâm được an lạc, các bạn đã phục vụ về đời, rồi trở về đạo trong nháy mắt, trong khi các bạn rời cơ sở tranh đấu trở về với thực chất thanh tịnh. Các bạn thấy trên thế gian này có cái nhóm nào sướng hơn bằng cái nhóm này không?
Không cầu cạnh, không xin ai! Tôi đi làm khổ cực, tôi trở về, tôi về tôi nhắm mắt, tôi ríu ríu, tôi lo tôi làm Pháp Luân Thường Chuyển, tôi làm cho tôi khỏe và tôi thấy tôi là từ ở trên Tam Thập Tam Thiên giáng lâm xuống thế gian, tôi phải về Trời. Tôi có Cha, có Mẹ, tôi có cảnh thanh sạch, tôi có cảnh đời đời, tôi không còn bị diệt nữa. Tuy rằng các bạn đi kiếm đồng tiền mà lúc đó các bạn quên đồng tiền rồi. Đồng tiền không có phải khả năng giúp bạn. Bạn ôm của đầy cho một đống về nhà để đó, rồi các bạn còn phải mệt, phải đếm nữa, rồi mang bịnh thôi. Còn cái này nó không; các bạn cũng lấy của Trời mà của đó đời đời mà không mất. [06:28]
Các bạn cứ ngồi làm Pháp Luân Thường Chuyển mở trí mở tâm trong thanh nhẹ, các bạn thấy sung sướng, rồi qua nhìn ra triệu triệu người các bạn đang gặp hằng ngày đây, 10 người thôi, thế được mấy người như bạn? 10 người, các bạn đi ngoài đường đó các bạn hỏi 10 người đó, có 10 người đó có mấy người sung sướng như bạn?
Cho nên cái pháp này là siêu diệu vô cùng! Rồi đây nhân loại sẽ hiểu. Khi mà hiểu rồi thì mọi người chỉ nắm cái pháp mà sống với siêu nhiên, sống với tự nhiên an lành. Và bất cứ những gì ta làm ta chấp nhận; mà cái tâm thức của chúng ta không bao giờ bị chìm đắm và không bao giờ bị mất nữa. Tâm thức, chơn thức của chúng ta là đời đời bất diệt, là một nguyên linh có đầu, có tay, có chân, có đủ thứ hết. Càn Khôn Vũ Trụ có kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, thì bạn cũng có kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Thì tứ đại: nước, lửa, gió, đất hợp thành thì bạn cũng nước, lửa, gió, đất hợp thành - có thua ai đâu, mà chỉ có cái tăm tối mà thôi! Tự kỳ thị mình rồi tự làm cho mình càng ngày càng eo hẹp, càng nhỏ đi, càng biến thế và không khai triển.
Cho nên cái phương pháp công phu này: Soi Hồn, Pháp Luân, Thiền Định là khai thông ba giới, là mở tới cái thức hòa đồng, là đi tới cái nhân loại tâm linh đại đồng ở tương lai! Cho nên, sớm mơi giờ, tôi cũng làm phiền các bạn một tiếng đồng hồ để các bạn cùng đi, cùng tìm nơi thanh cảnh, và các bạn không sẽ bị lạc nữa. Chỉ do cái chơn tâm thực hành của các bạn mà thôi! Xin hẹn ngày mai sẽ tiếp tục! [08:08]
[Kết thúc buổi học ngày 06 tháng 10, 1987 - Sang buổi học ngày 07 tháng 10, 1987]
Bị 4 cái cửa này, tứ quan này: mắt, mũi, tai, miệng, nó dẫn mình đi học sai. Thành ra bây giờ mình khao khát đi học đạo. Thì mấy bữa rày vô trong khung cảnh đầm ấm giữa huynh đệ tỉ muội chung trong một căn phòng nhỏ hẹp, mà tỏ tình thương yêu với nhau.
Bước vào nội tâm để sống chung trong thực hành thì mình cảm thấy trong ba ngày mà nó dài như cả năm sung sướng! Thấy không? Thấy rõ không, hả?
Chứ nó hỏi: “Chớ đi học mà không lựa trình độ. Thứ lớp A xếp lớp A, lớp B xếp lớp B thì mới dạy được chớ! Tại sao Ông để tùm lum vậy mà Ông dạy, rồi người nào người nấy cũng nói khỏe à?”
À… Cho nên, so sánh giáo sư thế gian khác, và giáo sư tâm linh đời đời bất diệt khác, hai cái không có giống nhau - Để thấy hả!
Đạo nó cũng có mọi thứ đạo khác nhau. Đạo trực tiếp và đạo gián tiếp, hai cái khác. Có đạo gián tiếp, thuyết lý bên ngoài thôi, trang trí bên ngoài thôi, lễ lộc bên ngoài thôi, mà bỏ trống bàn thờ bên trong. Thấy rõ chưa?
Còn ngày hôm nay chúng ta đời đạo song tu. Nhờ cái đời nó dẫn ta đến đây, cái hoàn cảnh nó làm ta bứt rứt, bực bội, ta đi tìm đạo! Phải nhờ đời không? Từ cái đời chúng ta đã thực hiện xảo trá, lường gạt, đủ thứ hết, đau khổ đủ chuyện hết, rồi nó dẫn ta qua đạo. Ta bước vào đạo, thấy… “Trời ơi! Chính tôi là một người phản bội lấy tôi. Tôi quên lấy tôi nhiều kiếp rồi. Nếu tôi biết tôi được thì tôi sung sướng biết là bao nhiêu, tôi hạnh phúc biết là bao nhiêu. Rồi tôi cứ đòi hỏi hạnh phúc hoài mà tôi không biết hưởng hạnh phúc của tôi; nằm hẳn trong tôi, nằm hẳn trong khối óc của tôi, nằm hẳn trong sự sáng suốt của tôi nếu tôi chịu lui về thanh tịnh”.
Cho nên các bạn tới đây, lui về gì? Lui về thanh tịnh! Thấy huynh đệ tỉ muội ăn chung một món ăn, mà ở nhà người đòi một món, rồi chê khen, mà bây giờ không chê khen, ăn mà vui, ăn mà sung sướng, ăn mà cảm thấy tình anh em rõ rệt. Làm sao chúng tôi được sống với nhau như vầy mãi mãi và mãi mãi - Tâm người nào cũng muốn vậy! Sao thấy người nào cũng dễ thương! Rồi được cơ hội tháo gỡ từ thắc mắc này tới thắc mắc nọ; từ kiến thức này tới kiến thức nọ; cũng trong căn phòng nhỏ hẹp chớ không phải đánh trống phèn la rồi mới kêu được. Nhưng mà nói giỡn chơi vậy mà nó mở tâm mở trí. Hỏi chớ cái ơn phước đó ở đâu; mà dòm ra bao nhiêu tỷ người, được bao nhiêu người được hưởng? Nhìn lại chúng ta thiệt là ưu tiên và hạnh phúc! Thấy rõ chưa?
Sống trong cái sự hạnh phúc, ấm áp thật sự trong tâm; mà mình hiểu được, mình hiểu được và mình sẽ đi, và giữ lấy để đi, chắc chắn tôi phải đi. Cho nên thề trong tâm bao nhiêu lần, rồi cũng phản bội lấy cái tâm, rồi bị bơ vơ; bơ vơ rồi mới có cơ hội trở lại. Nhưng mà nó không có thể sẵn sàng như vậy liên tục cho chúng ta. Nắm được cơ hội bây giờ thì phải sống ngay bây giờ và thực hiện bây giờ và sẽ đi tới luôn luôn nữa. [11:49]
Gút mắc này chúng ta tháo gỡ được thì tất cả những gút mắc ở tương lai cũng tháo gỡ được với một sự kiên nhẫn, thanh tịnh. Rốt cuộc, các bạn đi học hổm rày cũng học cái sự kiên nhẫn và thanh tịnh. “Khi không, cái ông đó ổng lên xưng Cha. Thằng đó chút xíu xưng Cha, ngồi nghênh ngang, tức quá! Sao ổng xưng Cha? Chuyện lạ quá! Rồi phải chọc nó coi! Hỏi nó, nó trả lời, nghe, mình nghe cũng được. Rồi một chặp nó trả lời, sao lại giống chuyện mình quá vậy? Một chặp, nó nói thét, sao nó là mình?! À, tại sao kỳ vậy?”
Khi mà mình thấy nó là mình, là mình thấy cái tâm thức mình được mở rồi. Mà do cái sự phơi bày, kích động của đối phương đương đặt trước mắt mình, mình trút ra bao nhiêu, tâm thức mình cứ nhào tới, nhào tới, rồi hỏi, cái thằng này thiệt hay là không? xạo hay là không? Nhưng mà cái đó là cái gì? cái gì của mình? Cái đó là cái trược của mình! Mà nó đụng vào cái thanh, cái thanh nó hút hết rồi!
- “A, con muốn nói gì con?”
Trời ơi, tôi lớn vậy mà nó kêu tôi “con”!
Chọc nó, nó tức rồi. Phải không? Cái tức đó là cái trược. Tấn công nữa… hốt luôn.
- “Con hỏi đi rồi cha cắt nghĩa cho con nghe!
Nó thấy rõ rồi! Bởi khi mà nó nói một câu như vậy đó, nó xưng cha, là mình bao nhiêu trược là tấn công hết trọi rồi, nó hút hết, vẹt màn, nó dòm thấy… “Bà đó tham quá, xấu quá”… nó thấy rõ cái đó. Rồi nó khai thác cái tham với xấu, là nó trúng cái tâm, tim đen của mình. Bởi vì tất cả cơ giới của mình tấn công nó hết rồi; đem cái hỏa trược của mình ra tấn công nó hết rồi, nó hút, nó thấy đối phương.
- “Tham! Nó muốn biết tao để cầu tao độ. Nó xạo!” (cười)
Nó biết! Nó nói cái trúng rồi! Thấy chưa? Cho nên kỹ thuật. Tại sao nó xưng danh Cha? Để cho mọi người tức và phóng ra trược điển hết. Nó là chơn chánh thì nó đem thanh điển xuống độ cho tất cả mọi người. Tấn công nhiều chừng nào mở trí chừng nấy. Uất ức chừng nào mở trí chừng nấy. Mà đừng có đóng cửa. Phải mở tâm ra giao cảm thì tự nhiên mình học được. [14:20]
Chứ tôi giảng đạo mấy chục năm nay và tôi học mấy chục năm nơi các bạn. Tại sao tôi nói rằng, gặp Ông Tám, chửi Ông Tám, tấn công Ông Tám, giỡn với Ông Tám, phá Ông Tám, tất cả cái trược của các bạn mất hết. Có nhiều người uất ức chuyện gia đình, vô khai với Ông Tám, nói đầu nói đuôi, khóc lóc một chập ra thấy vui. Tại sao? Người ta hút hết rồi! Người ta phóng cái thanh.
Thì bây giờ mình học cái lề lối nào? Mình học giải trược lưu thanh, mình phải sáng suốt, mình phải vận dụng sự sáng suốt của mình làm sao giải trược, làm sao lưu thanh. Phải gom nguyên ý của cả Càn Khôn Vũ Trụ, gom nguyên ý của tất cả mọi người, gom nguyên ý của tất cả vạn linh trở về với chơn tâm của mình, thì mình nhìn thấy rõ ràng đó là huệ; cây cỏ cũng là ta, bông hoa cũng là ta, tất cả mọi người đều là ta, chuyện gì xẩy ra đây? Thì thấy tâm mình tịnh rồi! Tất cả đều là ta. Chuyện gì xẩy ra đây? Không có, không có chuyện gì hết! Thì cái tâm nó tịnh rồi.
Tâm ở đâu? Tâm là ở chỗ đó! Tâm là phải biết tất cả là mình, mà mình là tất cả, thì mới nhìn nhau thấy rõ là Ông trời sanh có thằng con, mà nó lộn xộn, một thằng một. Bây giờ các bạn nhìn, thằng nào cũng mắt, mũi, tai, miệng, ngũ tạng, tứ chi, một thứ hết trọi; sinh có một cái khuôn một thôi, mà trong đó nó nuôi dưỡng trược với thanh. Thấy chưa? Bây giờ chúng ta tầm đạo là tầm cái đường thanh, mà phải từ trược mới biết giá trị thanh. Mà từ trược rồi, chúng ta giải được trược rồi, chúng ta ở cương vị thanh, thì không bao giờ bị tiêu hao nữa; ta dù có xuống trược cũng không có tiêu hao.
Cho nên chúng ta mới nhận định rằng Thượng Đế xuống thế gian, đem sáng suốt xuống thế gian giáo dục chúng sanh bằng một cái lòng từ ái thương yêu cởi mở, thì nó đâu có bị trược hút. [16:24]
Cho nên tôi nói các bạn không nên nghĩ xấu cho bất cứ một người nào. Tâm lúc nào thanh thản thì tự nhiên cái trược nó đứng trước mắt mình nó cũng phải trở lại thanh, bởi vì mình hút được nó rồi. Nó dòm cái mặt mình dễ thương, cởi mở, sáng suốt, hòa ái tương thân, niềm nở ở trong tâm hồn của nó, thì nó đâu còn cái khổ. Cho nên xa xưa người ta đi kiếm Ông Thích Ca mấy ngàn dặm, tới hết tiền bán đầu tóc để đi xe đi cộ, đi mua nhang, mua đèn cúng Ông Phật. Nhưng mà người ta tìm được cái an nhàn, tìm được cái nhàn hạ là họ bỏ được cái trược tâm của họ.
Cho nên ngày hôm nay, các bạn đến đây mới có mấy ngày à, mà quên hết chuyện gia đình, quên hết những chuyện tranh chấp nữa. Thằng nào thiếu nợ cũng quên luôn! Phải không? (cười)... Không có nhớ ai thiếu nợ mình hết, mà chính thấy mình vui hòa. Rồi đêm nay, đêm trung thu, chúng ta sẽ vui như con nít. Chúng ta phải hát bài “Ô Hê!” tối nay, phải không? Rồi chúng ta vui trong tuổi trẻ, rồi chúng ta thấy cái tâm đạo nó thể hiện ở chỗ nào?
Do có một ánh sáng của mặt trăng thôi, mà nó nhắc cho ta hiểu tất cả nguyên lý của Càn Khôn Vũ Trụ, sự sáng suốt là một - Tối nay sẽ học bài đó! Tối nay các bạn chơi rồi các bạn sẽ thấm thía trong giờ thiền, và sẽ học: Tất cả là một!
Bữa nay tôi xin tiếp tục! [18:10]
HỒI HAI
DẠO CỬA NAM THIÊN NGỌC KHUYẾT
LẠY CHÀO RA MẮT VĂN HÀNH THÁNH ĐẾ
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 16 tháng 5 năm Kỷ Mùi (1979)
Vạn pháp quy tông bất nhị môn
Đức Thầy giảng:
Đó! Tôi hồi nãy tôi nói cái vụ đó, mà bây giờ trong này nó ra cái câu là “Vạn pháp quy tông bất nhị môn”, không có một thứ hai, có một pháp à. Có một ánh sáng thôi! Thấy chưa?
Vạn pháp quy tông bất nhị môn
Linh Sơn tháp hạ nhất Đào Nguyên
Dục siêu tam giới tam tâm tận
Lục đạo vô thời đoạn lục căn.
Vạn pháp gồm thâu một cửa Trời
Linh Sơn chân tháp suối không hai
Muốn thăng ba cõi ba lòng dứt
Muôn thuở sáu căn sáu ngả rời.
Đức Thầy giảng:
Tham, sân si phải dứt hết! Thấy không?
“Muôn thuở sáu căn sáu ngả rời”: Đó! Mình phải dứt khoát. Cái người tu cũng vậy. [19:14]
Tế Phật: Muôn pháp quy về một mối, tại nơi một mực thuần chân, nếu như trừ khử nổi ba tâm, tức tâm không tưởng tới quá khứ, tâm không giữ hiện tại, tâm không khởi tương lai ắt có thể vượt qua ba giới là dục giới, sắc giới, vô sắc giới mà thành chính quả. Muốn thoát sáu ngả luân hồi hẳn trước phải đoạn tuyệt sáu giới là sáu cội rễ của sự ác gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
Đức Thầy giảng:
À… cái ác chúng ta có hết. Có mắt này, có tai này, mũi này, lưỡi này, thân này, ý, có hết, nó tạo cái ác, thị phi.
Sáu cội rễ cắt lìa rồi, sáu mối dây cột thắt không có chỗ trói buộc nữa thì sáu ngả luân hồi cũng từ đó dứt. Người đời tu đạo đều do ba tâm, hai ý, sáu thần không có chủ, mặc cho ma dẫn lối, quỷ đưa đường kéo mình xuống biển, chìm nổi ba đường sáu ngả không thể siêu sinh, bữa nay ngộ rồi phải lên cõi Trời. Cần sạch nợ cho thân mình nhẹ nhõm mới có thể nương theo thanh khí lâng lâng tự nhiên bay vút.
Đức Thầy giảng:
Đó, Tế Công cũng xác nhận là “nương theo thanh khí”. Mà ngày hôm nay chúng ta làm Pháp Luân Thường Chuyển là đem thanh khí vô, và phần hồn chúng ta sẽ nương và tiến hóa, trở về cái luật quân bình.
Bữa nay đã tới giờ dạo Thiên Đường, Dương Sinh mau lên đài sen, chuẩn bị khởi hành.
Dương Sinh: Thưa con đã chuẩn bị xong, xin mời ân sư lên đường.
Tế Phật: Đài sen trôi trên không mang theo hai thầy trò dần dần xa lìa bụi đỏ nhớp nhơ, núi xanh mây trắng, hào quang sương ngọc ngập tràn, chớp mắt đã tới cửa Nam Thiên.
Đức Thầy giảng:
Đi lên Thiên Đàng không phải là đi lâu. Người ta nói tu nhứt kiếp ngộ nhứt thời. Tu đi, rồi nháy mắt chúng ta tới Thiên Đàng. Mà nếu mà không có thật tâm tu thì không bao giờ đến Thiên Đàng được!
Dương Sinh: Bữa nay tại sao cửa Nam Thiên lại có muôn binh vạn mã thế kia, giống như bày trận đợi chờ, Đại Thánh lại đang cười ha hả tiến tới.
Tế Phật: Quân lính của Trời vừa mới tập dượt xong, hiện đang nghỉ ngơi cho nên ở đây lính trời tướng trời mới đông như vậy, con cứ yên tâm, chớ vì cảnh tượng trước mắt mà sinh lòng khỉ ý ngựa.
Dương Sinh: Thưa vâng, nhưng lòng khỉ dấy động thì ý ngựa lại lặng yên, con biết tính sao đây?
Tế Phật: Cố giữ đừng để nó quấy phá.
Dương Sinh: Dạ dạ, ngựa tới khỉ lại chạy.
Tế Phật: Hãy buông bỏ nó.
Đức Thầy giảng:
Các bạn ngồi thiền thì cũng là “tâm khỉ, ý ngựa” ở trong đó. Ban đầu chưa có thanh tịnh thì bộ đầu không rút, thì lúc nào nó cũng xẩy ra những cái chuyện đó. Cho nên mới thêm cái nguyên ý Nam Mô A Di Đà Phật để cho các bạn niệm, niệm, niệm… Dạy cho nó, tất cả đồng nhứt, đồng thức rồi thì lúc đó đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, là tiến hóa dễ dãi. [22:46]
Đại Thánh: Hoan nghênh Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh đã tới, xin mời vào thăm cửa Nam Thiên.
Tế Phật: Đa tạ Đại Thánh, bữa nay chúng tôi muốn vào cửa Nam Thiên Ngọc Khuyết để lạy chào ra mắt Nam Thiên Chủ Tể Văn Hành Thánh Đế, xin Đại Thánh hướng dẫn cho.
Đại Thánh: Dĩ nhiên như vậy, mau theo tôi.
Dương Sinh: Đại Thánh vừa rướn mình đã cưỡi mây lành bay đi, chúng tôi liền theo sau. Cõi Trời thật là có nhiều phương tiện, dưới chân mây tỏa lui tới tự do. Con muốn học phép này quá, chẳng rõ ân sư có ban ân đức dạy con không?
Tế Phật: Đó là ý hướng tốt, nên học Ngộ Không loại công phu này, thầy chỉ dạy ngay cho con vài chiêu pháp, hãy lắng nghe đây: “Ngộ Không đầu đội kim khuyên nên gọi là đầu kim cương, tay cầm gậy kim cô, phóng ra ắt tỏa ngợp Vũ Trụ, cuốn lại ắt lui về ẩn nơi u mật, quả là tay nắm đạo lớn thâu mở dễ dàng. Trong lò Thái Thượng Lão Quân luyện được mắt lửa cùng con ngươi vàng mới trấn giữ nổi cửa lửa Trời Nam nên tơ tóc không mất. Muốn bay chỉ khẽ chuyển mình là chân phun mây, và sau khi vận dụng vẫn giữ trọn được ba thứ quý là tinh, khí, thần. Như bình nước gia tăng độ nóng, hơi nhiệt phun ra, huyệt suối chảy dưới cẳng, chân khí vọt mạnh chẳng khác nào nhiên liệu bùng cháy, đẩy hỏa tiễn bay vút lên không, thần chân chính ở Nê Hoàn Cung nơi đỉnh đầu thăng cao, tay chân tự do lái thân mình, chỉ vụt thoáng đã bay xa ba ngàn dặm.”
Đức Thầy giảng: Đó! Cái đường này của Ngộ Không đây, là chúng ta đang hành đây này. Thấy rõ phải bảo vệ, phải giữ cái tinh, khí, thần, nó mới đủ sức, đủ nhiên liệu. Mà nơi Nê Hườn đây, trên bộ đầu này này, à, chỉ tưởng là nó vụt thoáng bay xa 3000 dặm. Người đời, bởi vì nhiều người bị hư hao về tinh khí thần, nó hại ghê lắm, cho nên nhiều khi dục rồi cái ngồi thiền, thấy nó uể oải là ở chỗ đó. Cho nên khi mà chúng ta kiểm chứng được, nên vun bồi cái chỗ đó để có cơ hội thức tâm và tiến hóa dễ dãi hơn. [25:40]
“Người đời nếu như chịu trì chí công phu luyện phép, kiên nhẫn giữ tinh khí, trừ khử dục bảo vệ thần khí, như nước trong bình trên bếp bỏ thêm than củi, chút dương khí phát động ắt có thể rung trời chuyển đất. Còn nếu ngày ngày đắm chìm trong chốn trược khí tửu sắc, của cải cuối cùng sẽ như trái bong bóng đang bay bỗng xì hơi, xẹp lép, rớt xuống đất, khí công tan tành, chẳng thể bay lên cõi Trời Đại La”. Điểm công phu này con cần ghi nhớ kỹ lưỡng, thân thể tinh luyện song thể hỗn nguyên, dễ dàng vận khí ba cõi, gồm thâu trời đất núi sông.
Đức Thầy giảng: Chúng ta đang làm cái Pháp Luân Thường Chuyển này; giữ tinh, khí, thần mà làm Pháp Luân Thường Chuyển thì không có khác chi cái pháp này.
Dương Sinh: Thì ra phải trải qua giai đoạn khổ luyện công phu như vậy mới có thể vỗ cánh lượn bay.
Tế Phật: Đã tới chốn Nam Thiên Ngọc Khuyết của Văn Hành Thánh Đế, Dương Sinh hãy kính cẩn chuẩn bị vái chào ra mắt Ngài. Đa tạ Đại Thánh đã dẫn đường.
Đại Thánh: Không có chi, xin cáo từ.
Dương Sinh: Lạy chào ra mắt Ân Chủ Văn Hành Thánh Đế Nam Thiên, đệ tử Dương Sinh bữa nay theo ân sư Tế Phật tới chốn này để cầu xin Thánh Đế khai sáng cho.
Thánh Đế: Miễn lễ, mời hai vị ngồi. Tiên Lại mau dâng thanh trà.
Tiên Lại (Lính cõi Tiên): Xin tuân lệnh... Đã dâng lên.
Thánh Đế: Hai vị chớ khách sáo.
Tế Phật: Dương Sinh đừng e ngại, Thánh Đế ban trà tiên, con uống đi rất bổ ích.
Dương Sinh: Cảm tạ Ân Chủ Thánh Đế đã ban trà tiên, thứ trà này trong xanh, tinh khiết và ngọt mát, quả là kỳ diệu, kỳ diệu.
Tế Phật: Đây là trà chính khí thanh bạch cõi Nam Thiên uống vào thông cổ. Bữa nay thầy trò chúng tôi phụng chỉ viết sách, đặc biệt tới lạy mừng ra mắt Thánh Đế, xin Thánh Đế ân ban lời vàng ngọc chỉ giáo cho.
Thánh Đế: Hai vị gian lao khổ cực, sau khi viết xong Địa Ngục Du Kí, công phổ độ chúng sinh cao dày cho nên được Vô Cực Lão Mẫu cùng Thượng Hoàng Ngọc Đế từ tâm chiếu cố, lại ban sắc chỉ trước tác Thiên Đường Du Ký. Vinh hạnh này do Tam Tào ban phát, Tam Tào, Thánh Thần Tiên Phật bận rộn lạ thường. Vô Cực Lão Mẫu cùng Ngọc Đế chỉ phổ độ chúng sinh có cơ duyên trong thiên hạ, đặc ban sắc mệnh cho Thánh Thần Tiên Phật ba cõi giáng phàm cứu độ thế nhân, cho phép thiết lập sa bàn tại đàn giáng cơ của Thánh Hiền Đường hầu mở rộng cửa phương tiện, canh tân chánh pháp để sự trao truyền ứng hợp với chân lý nhiệm mầu, độ được nguyên linh trở về nguồn cội. Ta hiện cai quản đàn tràng của các đền giáng cơ bút thuộc cõi Nam Thiên, phàm những ai lập đền để phát huy đạo giáo ta có đầy đủ hồ sơ viết rõ tên, tuổi, địa chỉ, công và tội đều ghi rõ trong sớ, mong người đời lập đền tu đạo phải nhớ kỹ điều này. Phàm những ai tới đền tuyên thệ tu đạo, Nam Thiên cũng đều có tên, nếu như trước sau chịu gian lao khổ cực để tu nhân tích đức, khi chết được ân sư độ về Nam Thiên ban thưởng công đức, được căn cứ vào nhân duyên, quả vị hưởng lạc thú tại Thiên Đường. Còn nếu như sau khi tuyên thệ lại phản bội đạo đức cùng lời thề ắt bị đày xuống Địa Ngục để chịu tội. Tóm lại có đạo đức lên Thiên Đường, không đạo đức xuống Địa Ngục, đó là lẽ đương nhiên. Người đời nếu như không giữ trọn đạo vua tôi, cha con, chồng vợ cùng nhân, nghĩa, lễ, trí, tín không được siêu thăng miền cực lạc thì lòng ta đau buồn lắm lắm! Hy vọng sau khi Thiên Đường Du Ký viết xong, tiết lộ cảnh sống nơi cõi trời, người đời sẽ cố tu thân để được lên sống tại Thiên Đường. Nếu như sau này thế nhân mọi người đều cố gắng di cư lên sống tại đây thì lòng ta sung sướng biết là bao.
Tế Phật: Đa tạ điều Thánh Đế vừa chỉ giáo. Thật là may mắn được tới thăm nơi đây, xin cáo từ.
Dương Sinh: Cảm tạ Thánh Đế ân ban lời vàng ngọc, vì thời giờ eo hẹp, xin bái biệt.
Thánh Đế: Lệnh chư Tiên Quan hàng ngũ chỉnh tề đưa tiễn.
Tiên Lại: Xin tuân lệnh phụng tiễn Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh trở lại Thánh Hiền Đường.
Tế Phật: Dương Sinh mau lên đài sen, chuẩn bị trở lại Thánh Hiền Đường.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh, con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư khởi hành.
Tế Phật: Phong cảnh Thiên Đường sáng tươi vô hạn đã bù đắp lại sự gian lao khổ cực suốt dọc lộ trình, chúng ta đang dần dần tiến vào quỹ đạo, khắp nơi đều là chốn tràn ngập phúc lộc cõi trời. Dạo Thiên Đường hưởng biết bao nhiêu sung sướng, người đời cớ sao lại không nghĩ tới… Đã về đến Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
Đức Thầy giảng: [31:49]
Cho nên chúng ta đọc đến đây, chúng ta mới thấy rằng cõi Trời là do gì? Tại sao Ông Thượng Đế Ông ra một cái lệnh mà ba cõi phải nghe? Thì tất cả tâm đều sửa hết! Những vị làm việc là tâm là một, Thượng Đế với ta là một, cho nên dễ truyền cảm, nhứt lệnh mà thôi, không có phải rùm beng khuyên bảo nữa. Hạ lệnh là mọi người phải nghe, là đồng nhứt tâm, nhứt trí hết thảy trên đường tu học, hướng về đạo quân bình thì dễ chuyển.
Cho nên ngày hôm nay Cha Nhẫn Hòa giáng lâm xuống đây làm cái gì đây?Mấy ngày nay làm cái gì đây? Là làm việc đó! Làm cho tâm các bạn mở ra, tâm các bạn thấy rằng sự thương yêu là vô cùng, các bạn mới thấy chiều lớn rộng của Trời Đất là một, thì lúc đó chúng ta dễ làm việc, một câu thôi là mọi người làm rồi, không có phải bận tâm và nhắc từ người rồi cãi cọ, rồi họp đi họp lại mất thì giờ, mất điển, rồi mất tất cả, phung phí những cái thực vật của Trời Phật, là chúng ta mang tội hồi nào không hay. Mà sau này chúng ta cố gắng tu rồi, chỉ có nói một tiếng là xong. [33:00]
Cho nên ngày hôm nay Cha Nhẫn Hòa xuống đây là nhẫn-hòa. Tại sao lấy chữ “Nhẫn Hòa”? Hết sức nhẫn hòa và để tìm ra sự sai lầm của mọi người, và để chỉ ra cho nó trở về với chính nó. Khi mà nó đồng nhất trở về rồi thì công việc rất dễ làm; việc lớn tới việc nhỏ chỉ nói một tiếng nhỏ mà thôi, khỏi cần la lô nhắc nhở nhiều nữa.
Cho nên, ráng cố học, sửa tâm và vận dụng sự sáng suốt của chính mình để trở về với chính mình, thì lúc đó chúng ta làm việc dễ lắm; không có sợ mất mà lúc nào chúng ta cũng thấy còn và vui tươi, hòa ái tương thân trong việc làm của ba cõi chớ không phải một cõi.
Cho nên con người rất siêu diệu, ẩn tàng những cái bí khuyết ở bên trong. Mà chính chúng ta giáng lâm xuống thế gian bị ngoại cảnh nó thu hút, nó làm cho mờ ám tâm thức của nội bộ, cho nên ngày hôm nay chúng ta được cơ duyên và thức tâm tự học để mở nó ra, rồi tương lai chúng ta mới thấy cái giá trị lớn rộng, chỉ có một chân lý mà thôi! [34:12]
HỒI BA
LẠI DẠO NAM THIÊN NGỌC KHUYẾT
NGHE THÁNH ĐẾ KHUYÊN NHỦ
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 23 tháng 5 năm Kỷ Mùi (1979)
Bồ phiến khinh dao đạo khí lai
Hồ trung mỹ tửu tẩy dương ai
Thế nhân học ngã thường hoài lạc
Linh Ẩn tự tiền Hoạt Phật tài.
Nhẹ phẩy quạt bồ đạo khí lan
Rượu ngon đầy hũ tẩy dương gian
Học ta bao kẻ đời hoan lạc
Phật Sống chùa thiêng đã cấy mầm.
Tế Phật: Tay ta phe phẩy quạt Bồ, bầu rượu ngon rót chảy tràn môi, mỗi bước ta đi khác nào la hán, người đời mấy ai học được phong độ an nhiên tự tại này? Có kẻ thấy ta thích thịt chó, ham nhậu rượu, ngất nga ngất ngưỡng vội cho là ta không phải bậc chân tu, kỳ thực bọn họ đã sai lầm. Thế gian có hòa thượng ăn thịt, trên Trời không có la hán uống rượu. Nhớ thuở xưa ta từ trên trời nhìn thấy lắm kẻ xuất gia tu hành, miệng ăn đồ chay mà lòng chứa dạ quỷ, rất ít kẻ thiện trí thức giác ngộ Phật pháp, phần đông đều là những kẻ ăn xổng uống càn, cho nên ta không nỡ đoạn tuyệt với tuệ duyên nhà Phật mới đầu thai xuống trần đổi tên là Tu Duyên để phổ độ quần sinh, giả điên giả khùng châm chọc người đời, chuyên nhắm một số hòa thượng gây chuyện quái đản, hễ họ bảo phải kiêng cữ thì ta lại ăn nhiều, họ bảo không được đi ta cứ đi, hành động ngược hẳn pháp như vậy là cốt để độ người chính trực. Sở dĩ một số kẻ tuệ mỏng trí nông cho ta là thứ tăng điên dại, là ma quỷ nơi cửa Phật, bởi họ không hiểu rằng thân ta điên nhưng tâm chẳng điên, ta tụng “chân chính kinh” chẳng thể so sánh với bọn họ chuyên niệm “giả chính kinh”. Thực ra họ chỉ là những kẻ “giả từ bi” cho nên mới giả ăn, giả uống để cầu được sống cho qua ngày, nên Tế điên ta mới đến đập bể chén cơm của họ, bởi vậy tăng lữ đương thời khi ta, chửi ta, hận ta, thậm chí tới nay cửa Phật vẫn còn nhiều thiên kiến đối với ta, cho ta là hòa thượng không thanh tịnh, đâu ngờ ta lại là la hán hóa thân, là ánh sáng mặt trời nhưng giấu kín tam muội chân đạo, cho nên khi ăn thịt uống rượu chỉ cần nuốt tới cuống họng là tiêu hóa sạch trơn, nên bao tử, ruột non, ruột già vẫn trống không. Sở dĩ ta vờ nuốt vào bụng là cốt để chọc ghẹo tăng lữ cùng tu đấy thôi, cho nên mới nói: “ăn nhiều, uống nhiều mà vẫn chẳng hưởng được mùi vị chi”. Người đời gặp ta ai nấy đều cười ha hả, khen ta là “Phật như ý”, “Phật hoan hỷ”, “Phật sống Tế Công”, ha ha cớ sao còn lắm kẻ chẳng lạy “Phật sống” lại đi lạy “Phật chết”, thực sự đáng thương! Đáng thương! Gặp thời mạt pháp ta càng cần đùa bỡn một phen, chẳng đến chùa Phật lại đến nhà tục, là muốn mọi nhà thành chùa Phật, mọi gia đình sinh ra Phật. Bữa nay tới chốn này hướng dẫn thánh bút Dương Sinh dạo Thiên Đường thực quả là bận rộn. Đi thôi Dương Sinh.
Dương Sinh: Thưa ân sư! Những điều thầy vừa dạy toàn là các ý tưởng chân chính từ cõi Trời ban xuống, nhưng con sợ rằng người đời không hiểu lại nghĩ là thầy khoe khoang phách lối.
Tế Phật: Chớ có sợ, ta vốn từ chối chùa to miếu lớn, cam phận sống trong chốn bình dân nghèo hèn là bởi vì ta không thích ngụy trang, mong sử dụng tính đó làm phương tiện cho pháp môn để hóa độ kẻ tục, người đời cười ta điên thật chẳng đáng thương thay cho họ lắm sao? Mau lên đài sen.
Dương Sinh: Con đã sẵn sàng, mời thầy lên đường... Bữa nay tại sao lại tới chốn này? Vì đây chính là ngã ba biên giới Âm Dương.
Tế Phật: Bữa trước đã tới Nam Thiên Môn, bữa nay ta lại dẫn con tới chốn này là vì chúng ta phải tới thăm Nam Thiên Môn lần nữa.
Dương Sinh: Trước đây dạo Địa Ngục con đã được thấy biên giới Âm Dương, song bữa nay nhìn con đường lớn hào quang lấp lánh dẫn thẳng lên khoảng không trung mờ mịt mây trời, trên đường người đi đông nghẹt, có kẻ ngồi kiệu, có kẻ cưỡi mây, có kẻ thả bộ, họ đều được các tiên lại, sa di hoặc thiên sứ dẫn đường là bởi lẽ gì?
Tế Phật: Sau khi chết những ai có phước quả đều được tới Âm Dương giới, một số trong đám người này không cần phải qua cửa âm phủ để sưu tra công và tội, do đó tới khúc rẽ của ngã ba biên giới Âm Dương này cứ việc đi thẳng lên núi Tâm Đầu. Những người con vừa thấy lúc còn tại thế họ đều sống có đạo đức, công quả lớn lao, sau khi chết được các sứ giả trực thuộc đón lên Thiên Đường trình diện. Nếu như là người đắc đạo hẳn là không như vậy vì họ “Biết sống chết, rõ đường đi” (Tri sinh tử minh khứ lộ), lúc sống quen đi đại lộ Thiên Đàng, sau khi chết như ngựa già biết rõ đường quen, an nhiên tự tại mà nguyên linh vẫn nhẹ nhàng bay thẳng tới Thiên Đường sống thảnh thơi, người đời chỉ những ai về được Thiên Đàng mới thấu tỏ hết sự tình, bữa khác ta sẽ hướng dẫn con tới dạo cảnh này, còn bữa nay chúng ta phải tới thăm Nam Thiên Ngọc Khuyết bái hội cùng Văn Hành Thánh Đế thêm lần nữa để nghe Ngài chỉ dạy. [41:14]
Dương Sinh: Hay quá, những người được về cõi Trời đầu họ đều tỏa những vòng hào quang, nét mặt lộ vẻ vui mừng, an nhiên tự tại, trái ngược hẳn những vong hồn bị lùa xuống Địa Ngục kêu khóc thảm thương, quả là khác nhau nhiều quá.
Tế Phật: Lẽ đương nhiên là như vậy, lên Thiên Đàng về cực lạc; xuống Địa Ngục chịu hình phạt, hai loại cảnh huống giống nhau sao được! Kẻ muốn lên đài lãnh thưởng còn phải quỳ gối chịu đá chịu đấm nữa là. Thôi, chúng ta mau tới cửa Nam Thiên.
Dương Sinh: Đài sen bay mau, con đường lớn rực rỡ hào quang hiện ra trước mắt, chỉ một sát na là tới cửa Nam Thiên, đã thấy Đại Thánh ở đó, tay cầm gậy Kim Cô múa may, miệng vui cười không ngớt.
Tế Phật: Vì không thể ngừng lại, nên chúng ta chỉ có thể cất tiếng chào để giữ lễ mà thôi. Đã tới Nam Thiên Ngọc Khuyết, Dương Sinh mau ra mắt Thánh Đế.
Dương Sinh: Xin vâng lệnh. Lạy chào ân chủ Văn Hành Thánh Đế, bữa nay chúng tôi lại tới thăm Ngọc Khuyết, xin ân chủ ban lời chỉ giáo.
Thánh Đế: Miễn lễ. Mời hai vị ngồi; Tiên Lại, mau dâng trà ngon.
Tiên Lại: Xin tuân lệnh. Đã dâng lên.
Thánh Đế: Nhị vị gian lao khổ cực, còn Tế Phật, Ngài đã lãnh trọng trách phổ độ chúng sinh quá lớn lao, bữa nay lại còn hướng dẫn thánh bút Dương Sinh bôn tẩu khắp ba cõi viết sách khuyên đời, phải chịu nhiều khổ cực nhưng có công to. Cõi Trời lần này ban sắc chỉ trước tác sách Thiên Đường Du Ký công trình thực quả phi phàm vì đã tiết lộ thiên cơ hẳn là sẽ thâu được hiệu quả khuyên đời, còn không sẽ cực khổ mà vô ích. Nhân vì Thánh Hiền Đường viết kinh sách dạy điều thiện cho nên toàn thể bạn đạo đã dốc tâm in tặng số lượng lớn để giáo hóa phổ độ chúng sinh, giống như giọt cam lồ nhuần thấm khắp vạn vật, ví thử sách này giáng ở cõi khác, sợ rằng công hiệu khuyến hóa chưa chắc đã mau lẹ, rộng lớn như quý Hiền Đường. Bởi vậy, sách Thiên Đàng Du Ký hẳn là đã chọn nơi thiện lành đẹp đẽ nhất trong ba cõi Đất, Trời, Người là Thánh Hiền Đường mà giáng. Trường hợp này nếu trời xanh không thiên vị, đạo trời chẳng quen biết thì hẳn là chỉ nhờ tu nhân tích đức mới được vậy. Mong các đệ tử nhận lấy vinh quang mà hy sinh thêm cho sự nghiệp khuyên đời để đền đáp ơn Trời.
Dương Sinh: Cảm tạ ơn sâu của Thánh Đế, toàn thể bạn đạo chúng tôi dốc lực phục hưng văn hóa cùng đạo đức cổ truyền Á Đông, có thể nói là cho tới khi nào sức cùng lực kiệt mới thôi. Kính mong Trời xanh thấu hiểu, toàn thể bạn đạo cảm kích khôn nguôi, khi nào về tới Hiền Đường tôi sẽ thuật lại nguyên văn những lời chỉ giáo của ân chủ Thánh Đế.
Thánh Đế: Phạm vi dạo Thiên Đường rộng lắm, nếu như mỗi nơi đều tới sợ rằng sẽ vĩnh viễn đi không trở lại, nên theo ý tôi chỉ tuyển chọn một số vùng có liên quan đến thế đạo tới thăm hỏi mới có thể xong được mà thôi. Tới ngày hoàn thành sách Thánh để tặng đời độ người, Tế Phật sẽ được an ủi vì đã quá nhọc nhằn hướng dẫn.
Tế Phật: Đó là trách nhiệm, xin Thánh Đế mở rộng cửa phương tiện.
Thánh Đế: Chớ khách sáo. Hiện thời được Tam Tào phổ độ, khắp cõi Trời, địa ngục, nhân gian đều có người cùng quỷ thần hỏi đạo tu đức, viết Thiên Đàng Du Ký lần này rất ứng hợp với phương diện vừa nêu trên, cùng khuyến thế thật là đúng lúc. Bắt mạch bốc thuốc mới mong khuyên nhủ lòng người. Từ nay về sau có thể căn cứ theo đồ án đã vẽ này mà xây dựng một tòa “Thiên Đường Lạc Thú” tròn đầy, chỉ có ít lời này khuyên nhủ.
Tế Phật: Xin ghi tâm khắc cốt những điều Thánh Đế vừa chỉ dạy, giờ đây xin cáo từ.
Dương Sinh: Cảm tạ Thánh Đế đã ban lời vàng ngọc, xin bái từ.
Thánh Đế: Có gì khó khăn, cứ trở lại đây bày tỏ, tôi sẽ sẵn sàng giải đáp.
Dương Sinh: Đa tạ ân chủ Thánh Đế đã để tâm lo lắng cho.
Thánh Đế: Lệnh cho các Tiên Lại hàng ngũ chỉnh tề đưa tiễn.
Tế Phật: Dương Sinh mau lên đài sen, chúng ta chuẩn bị trở lại Thánh Hiền Đường.
Dương Sinh: Thưa con đã sẵn sàng...
Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác. [46:52]
HỒI BỐN
DẠO CUNG THÁI THANH
NGHE THÁI THƯỢNG ĐẠO TỔ THUYẾT PHÁP
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày mồng 6 tháng 6 năm Kỷ Mùi (1979)
Lão Quân tây hóa giá thanh ngưu
Ngô Phật đông lai phiếm thánh châu
Khổng Tử chu du thôi thất mã
Du Hồi sa mạc lạc đà tu.
Lão cưỡi trâu xanh phổ đạo Trời
Phật chèo thuyền pháp độ không ngơi
Khổng tung vó ngựa thầy muôn thuở
Chúa ruổi lạc đà cứu khắp nơi.
Tế Phật: Trời đất vốn từ một khí sinh ra, các vị giáo chủ của năm tôn giáo khởi sự giảng đạo dạy người, phương tiện truyền bá tuy không giống nhau nhưng kho kinh điển hàng ngàn vạn chữ chứa trong bụng đó đều hàm ngụ các pháp chỉ dẫn lối lên Thiên Đường. Chỉ tiếc rằng ngày nay những kinh sách ấy bị chữa chỗ này sửa chỗ nọ, chẳng khác nào vẽ rắn thêm chân, như bức danh họa cổ thời rách nát, khiến kẻ tu đạo muốn kiếm báu vật phải lặn lội tìm tòi tận chốn thâm sơn cùng cốc. Lại thêm không rõ đặng lẽ đạo của các tôn giáo chẳng khác nhau nên mới quên đi lý tưởng vì sự sống chung lo xây đắp thái hòa, vì chính nghĩa gắng thức tỉnh lòng người, cứu vãn cảnh trầm luân nơi cõi thế hầu giúp nhân loại xum họp một nhà. Phật tôi đây tại cõi Trời không phân biệt chúng sinh, vì lẽ loài người đều do đức hiếu sinh của Trời mà ra, ý hướng truyền bá lẽ đạo là muốn đời sống hòa bình hạnh phúc của nhân loại ngày một thăng tiến, chấm dứt tình trạng coi rẻ, bài xích, phỉ báng lẫn nhau. Loài người trên mặt đất vốn từ Trời xuống, song vì phân chia đi các nẻo để kiếm miếng ăn duy trì sự sống, lâu ngày quên mất cõi Thiên Đàng là chốn nhà xưa. Ngày nay, cần phải thức tỉnh nhân tâm hướng về cõi Trời, nhận rõ đâu là nguồn cội, ai là tổ tiên, nên mới đặc biệt ra lệnh cho Thánh Hiền Đường trước tác sách Địa Ngục Du Ký, tiết lộ thiên cơ để chúng sinh hyểu rõ nguyên lý của tạo hóa, ngõ hầu các sinh linh trở về được cõi Thiên Đường. Nếu như không sớm tu tâm sửa tánh hẳn là càng chìm đắm càng bị chôn sâu, cuối cùng rớt vào sáu nẻo luân hồi, muôn vạn thuở không thể trở lại lúc ban đầu được nữa. Dương Sinh mau lên đài sen, chuẩn bị khởi hành.
Dương Sinh: Thưa, con đã sẵn sàng, kính mời ân sư lên đường.
Tế Phật: Cưỡi đóa sen rực rỡ này rong ruổi vạn dặm giữa chốn không trung để tới Thiên Đường sáng chói, quả là được nhẹ nhõm siêu thoát, phơi phới muốn thành tiên, có cảm tưởng giống như mọc cánh vút bay, tấm thân nhẹ hẫng, tinh thần hoàn toàn tiêu dao tự tại. Đệ tử hiền ngoan của ta ơi! Cớ sao không nói lên cảm giác lúc này?
Dương Sinh: Thưa, con cảm thấy tâm thần sảng khoái, hào quang tỏa ngời, mây mùa thu tan biến, muôn hoa đua nở khắp nơi, các loài chim quý lượn bay, miệng ríu rít hát khúc mừng tiên. Các giống muông thú kỳ lạ chưa từng thấy nô đùa nhảy nhót trong đám mây xanh cỏ biếc, mùi thơm của nhụy hoa xông làm con ngây ngất, nơi này không vương mảy may khí tục trần, phong cảnh Thiên Đường sáng tươi hiện thời làm mê đắm lòng người, chẳng còn muốn trở lại trần gian.
Tế Phật: Cảnh Tiên này chốn trần gian quả chưa từng nhìn thấy, chỉ cõi Trời mới có. Hiện thời duyên trần của con chưa dứt, chẳng thể ở đây lâu, phải lo hóa độ thật nhiều chúng sinh, họp bạn cùng tu lo công quả, ngày sau tự nhiên tới được nơi đây du sơn ngoạn thủy, ở mãi núi Tiên làm khách của Tiên.
Dương Sinh: Cảm tạ những lời ân sư vừa chỉ giáo. Các tòa lầu cao phía trước sừng sững giữa mây, ngời tỏa ánh vàng lấp lánh, lại thấy có con trâu xanh một sừng đang tiến về hướng thầy trò mình, cõi Trời cớ sao lại nuôi trâu?
Tế Phật: Đó là sức mạnh của đôi cẳng Thái Thượng Lão Quân, trâu xanh một sừng là loại thú đặc biệt ở cõi Tiên chứ chẳng phải trâu rừng thế gian. Con chớ sợ hãi, trâu tới nghinh tiếp chúng ta đấy mà. Trâu bò cõi thế gian thật là đáng thương, non cày ruộng, già kéo xe, thân làm thịt ăn, sữa nuôi trẻ... trâu bò cống hiến nhu cầu cho người thật quá lớn lao. Còn con trâu xanh của Lão Tử nuôi này là trâu trời, thủy tổ của các loại trâu bò trần gian. Trâu bò trần gian có đủ màu lông, nào như vàng, trắng, đen, đỏ. v.v... nhưng tuyệt nhiên không có màu xanh.
Dương Sinh: Cung điện phía trước nguy nga tráng lệ phi thường, giống như mây lành kết tụ, như nạm bạc dát vàng, khí hạo nhiên vây bọc khiến ai nhìn thấy cũng phải kính nể, ba chữ Thái Thanh Cung chợt hiện ra, hào quang lòa cả mắt.
Tế Phật: Đây là Tam Thanh Điện Phủ, chốn cư ngụ của Thái Thượng Lão Quân, cũng còn gọi là Đâu Suất Cung ở cõi Đại Xích Thiên. Bữa nay lần đầu tiên chúng tôi tới đây, xin Đạo Tổ chỉ giáo cho về nguyên lý trời đất hóa công để người đời được rõ, để kẻ tu đạo về Trời bằng con đường ngắn nhất. Viết sách Thiên Đường Du Ký trước tiên phải bày tỏ cơ biến hóa vận chuyển của trời đất, Đạo Tổ lại là bậc thánh “Thượng Chân Kim Tiên Khai Nguyên” cho nên cầu mong ngài chỉ dạy về lẽ huyền vi của tạo hóa.
Dương Sinh: Thưa, thì ra là như vậy.
Tế Phật: Các đồng tử tu đạo đã hàng ngũ chỉnh tề để nghinh tiếp chúng ta.
Dương Sinh: Cúi đầu chào ra mắt chư vị tiên đồng, tôi là kẻ phàm nhân, đệ tử của Thánh Đế ở Đài Trung Thánh Hiền Đường, bữa nay phụng chỉ theo thầy dạo Thiên Đường hỏi đạo, kính mong tiên đồng chỉ dẫn cho.
Đạo Đồng: Hoan nghênh Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh tới thăm, giáo chủ ngỏ lời mời hai vị, xin hai vị đi theo chúng tôi vào lạy chào ra mắt Đạo Tổ.
Dương Sinh: Xin đa tạ. Theo tiên đồng vào cung Thái Thanh, chánh điện tôn nghiêm, vắng lặng, một vị đạo sĩ vẻ mặt hài đồng, mái tóc bạch hạc ngồi trên bệ cao giữa điện, phía trước có đặt một lư hương, khói nhang nghi ngút bốc lên, toàn thân Đạo Tổ hào quang tỏa ngời. Lạy chào Thái Thượng Đạo Tổ, nay con phụng chỉ theo thầy lên thăm cõi Trời để viết sách, giờ đây xin vào Thái Thanh Cung lạy mừng ra mắt Đạo Tổ, kính mong Đạo Tổ mở lòng từ bi chỉ giáo cho con về lẽ đạo để ghi vào sách Thiên Đường Du Ký hầu khuyên răn người đời.
Đạo Tổ: Miễn lễ, Dương Sinh mau đứng dậy, Tế Phật cũng chịu nhiều gian lao khổ cực. Mời hai vị ngồi, Dương Sinh xác phàm chưa hóa, linh nhãn lại mới mở nên đạo lực còn kém, nay tới cõi Đại Xích Thiên này tâm linh khó bề chịu đựng nổi, do đó ta đặc biệt ban thuốc Kim Đan này để củng cố nguyên thần đạo thể, hãy cầm lấy đi.
Dương Sinh: Cảm tạ sự ân ban của Đạo Tổ. Tinh thần con hiện thời hơi khó chịu, phong cảnh Thiên Đường tuy đẹp đẽ, song tâm hồn con cảm thấy không yên.
Đạo Tổ: Chỉ vì công lực chưa đủ, cõi Đại Xích Thiên này ở bên ngoài ba mươi ba từng trời, nếu không phải là những bậc thượng thánh cao nhân không thể tới đây. Con may nhờ được hưởng phước nên mới phụng chỉ tới thăm nơi này, ta giúp con một cánh tay để thêm sức, mau cúi xuống.
Dương Sinh: Xin vâng lệnh, con đã sẵn sàng. Đột nhiên lửa cháy bùng bùng trong tâm, một luồng chân khí bay vút lên cao, hai mắt mở lớn, chợt cảm thấy cơ thể thích ứng nổi với hoàn cảnh nơi đây. Cảm tạ Đạo Tổ.
Đạo Tổ: Đó là thuốc “cửu chuyển kim đơn” được luyện trong lò vàng tám mươi mốt năm, đợi ban cho kẻ có duyên, bữa nay Dương Thiện Sinh tới đây kể như là người có được duyên ấy.
Tế Phật: Cảm tạ Đạo Tổ đã ban thuốc kim đơn trợ giúp phần linh quang cho đệ tử của tôi một cách lớn lao. Mục đích bữa nay chúng tôi tới đây là mong được chỉ giáo, vậy kính xin Đạo Tổ khai mở lẽ huyền vi của trời đất hóa công để thế gian giác ngộ đạo lớn mà tu luyện tính tình hồi hướng lẽ thiện chân.
Đạo Tổ: Sự huyền diệu của trời đất hóa công ngoại trừ những bậc đắc đạo không kể, còn hầu hết người đời đều chẳng thấu tỏ. Cõi thế hiện thời lại quá cơ tâm xảo trí, cần phải rộng lượng cứu giúp, chu kỳ khí trời đất vận hành cực kỳ huyền diệu, cho nên Trời ban sách huyền bí Thiên Đường Du Ký xuống thế gian lúc này cực kỳ đúng thời, lòng ta hằng lo chúng sinh dưới gầm trời không thấu tỏ lẽ đạo sẽ khó bề hướng thiện, bởi vậy giờ đây cần phải thuyết giảng một chương về nguyên lý cao thâm của trời đất hóa công, đem thiên cơ tiết lậu cùng thế gian để cứu độ chúng sinh. Ô hô! Trời cao đất thấp, chúng sinh ở giữa, ba cõi lập, thế giới thành. Kể từ thuở mênh mông mờ mịt chưa chia, trời đất còn là một khối hỗn độn, mặt trời mặt trăng chưa phân, lúc đó khí tiên thiên vô tận, Thánh Phật Tiên hòa hợp chung cùng một thể, tỏa chiếu vô lượng hào quang xoay chuyển hư không được gọi là: “Người trên cõi mịt mờ” (Huyền huyền thượng nhân), hay “Vua Trời thuở ban sơ” (Nguyên Thủy Thiên Vương). Bởi địa vị tối cao đó nên còn được kêu là “Thượng Đế”, là thủy tổ muôn loài vạn vật, hoặc cha Trời mẹ Đất. Vì không biết tên nên mới gọi là “huyền huyền” (mờ mịt), không rõ gốc rễ nên gọi là “nguyên thủy” (ban đầu) tức là gốc của đạo lớn, cõi của không tên. Vận chuyển tới mức tròn đầy thì khí tự nhiên phân hóa thành “tam thanh”, gồm: Ngọc Thanh Nguyên Thủy Thiên Tôn, Thượng Thanh Linh Bảo Thiên Tôn, Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn. Ba nhân tố “Huyên, nguyên, thủy” cùng chung một thể, ba cấp bậc khi đã nên sự thì “tam thanh” phân chia biến hóa sang hữu hình, khí thanh nhẹ bay lên cao hội hợp làm trời, mặt trời, mặt trăng và sự xuất hiện này đã hoàn thành tam bảo. Thiên Tôn vị ở tam thanh lại biến hóa Ngũ Lão: Đông hoa Mộc Công, tây hoa Kim Mẫu, nam hoa Hỏa Tinh, bắc hoa Thủy Tinh, trung hoa Hoàng Lão, năm lão đã thành, ngũ hành lập xong, khí trược nặng lắng xuống ngưng tụ thành đất. Trời đất đã làm nên nhưng còn thiếu loài người. Vua Trời thuở ban sơ sinh ra trời đất hóa công, cố gắng vận dụng chân khí một cách âm thầm để phân lập năm phương thành hình thế giới, nhưng nếu không có con người thì không thể nối liền tam tài cho nên Ngài mới ra lệnh cho Ngũ Lão đem các nguyên linh gieo trồng. Ngũ Lão sau khi nhận lãnh trách nhiệm liền thúc đẩy Kim Mẫu, Mộc Công lo việc thai nghén các nguyên linh. Hoàng Lão còn tuyển chọn vùng đất Đơn Khâu thuộc núi Tu Di mà kiếm hang động để Hoàng Thổ làm chỗ thụ thai. Thế là việc chế lọng tròn (trời), đệm vuông (đất), hay trời che đất chở xong xuôi, Mộc Công bèn nấu “ngũ kim” lọc lấy tinh chất đúc đỉnh ba chân, Kim Mẫu nung “ngũ thổ” lọc lấy thần khí nặn lư Yển Nguyệt. Sau khi núi nứt nẻ, tinh chất của nước đá Huyền Anh rỉ ra ứ đọng trong lư, liền bỏ chõ đất vào trong, úp đỉnh vàng lên mặt rồi kiếm củi dâu phương nam cùng vận dụng chân hỏa nung nấu, lát sau hơi nước ở giữa chốn thái hòa trong đỉnh ngưng đọng biến thành nước rớt xuống đáy, khí thoát ra từ dưới bụng chõ lại bay lên, do đó mà nước luôn luôn thăng giáng, đầy ắp cả trong ngoài, năm Lão có thể lặng lẽ mở đóng cửa huyền vi, ngưng kết đơn đầu chuyển đỉnh ấp chõ, ánh sáng tỏa ngập tứ phương bảy ngày mới thâu hồi. Hoàng Lão, Xích Tinh, Thủy Tinh tại chốn cao vời trầm mặc đưa mắt thần theo dõi. Kim Mẫu, Mộc Công lại tái lập bếp, đặt chõ lên trên đuổi khí lạnh giá đi, tỏa khí ấm áp xuống. Để thi hành cái tinh túy của Thái Ất, Mộc Công, Kim Mẫu dùng đạo “Kim Dịch luyện hình” để gìn giữ tĩnh dưỡng tinh thần, quên lo toan, bỏ tính toán, sống hòa hài. Phân định kỳ hạn của các tiết và mùa trong mỗi năm xong thì mây ngũ sắc phủ đỉnh đầu, sương ngọt tưới ướt đẫm mình núi Tu Di. Chợt nghe tiếng động cựa trong đỉnh, Mộc Công, Kim Mẫu biết là đơn đã chín, mở nắp xem thấy có hai vật ấp nhau liền đưa tay nhấc một vật lên xem thì ra là tượng một hài nhi nam, Mộc Công nhấc vật còn lại lên coi thì ra là một hài nhi nữ, hai người mỉm cười ra khỏi đỉnh luyện ngũ hành. Hai con đỏ đó là họ Bàn Cổ và Thái Huyền Ngọc Nữ cũng gọi là Á Dương hoặc Hạ Giai ở vào giai đoạn diễn hội giáng trần. Lúc chính khí của ngũ hành sinh ra người, khí của nó tiết ra ngoài phân tán khắp gầm Trời mà sinh ra các loài sinh động, thực vật cùng các giống bay, lặn. Còn như ngũ kim, thảo mộc, nước sông biển, điện quang thạch hỏa, các loại động vật, bụi đất đó đều là nguyên do sự tích nặn đất thổi khí thành người. Con người vốn từ đất làm nên, đất nuôi đất dưỡng, cho nên khi chết lại trở về nguồn cội đất. Tạo lập cõi trần xong, anh nhi hài nữ giáng phàm thân thể vốn thanh tịnh, song vì ăn phải trái cấm tính dục phàm trần kích động, âm dương giao hợp cho nên loài người từ đấy sinh sản không ngừng. Lý do Vô Cực Nguyên Thủy chỉ nhất động mà sinh ra Thái Cực, Thái Cực bao hàm lưỡng nghi âm dương rồi biến thành tam tài, tứ tượng, ngũ hành v.v... Nhất bản tán vạn thù (một gốc sinh ra muôn vạn cái khác biệt) cho nên gọi là chúng sinh, cũng còn kêu là chín mươi sáu nguyên linh, ý nói trời chín, đất sáu bao la vô cùng vô tận không chỉ giới hạn có 96 ức mà thôi. Ngũ Lão thai nghén sinh sản ra các nguyên linh cùng vận chuyển chân khí thành ra người đầy đủ ngũ tạng, ngũ khí thịnh được là nhờ công của Ngũ Lão. Loài người trên trái đất màu da không giống nhau là do ảnh hưởng bởi năm sắc của năm phương: Đông sắc xanh, Tây sắc trắng, Nam sắc đỏ, giữa sắc vàng, Bắc sắc đen. Cho nên màu sắc giống như đất nung trong lò, vì lửa không đều mới sinh ra các màu khác nhau. Nguyên linh giáng phàm, ban đầu tính tình thuần phác, lấy lá cây che mình, tâm hồn nhiên như lúc ban đầu, không thắc mắc, không ham sống sợ chết cho nên lúc chết dễ dàng siêu thăng cõi Trời. Sau chỉ vì nguyên linh chủng tử sống với đất lâu ngày thay chất đổi giống, từ thời trung cổ tính linh bắt đầu bị ô nhiễm nặng cho nên có nhiều kẻ chết không được về Trời, khí ô trọc nặng nề chìm xuống nên Địa Ngục được tạo lập từ đây. Ngũ Lão ở cõi Trời thấy vậy quá đau lòng muốn phế bỏ, liền triệu tập hội nghị để họp bàn phương cách thâu hồi kế sách đã đem ra thi hành một cách bất đắc dĩ, Ngũ Lão mới phân thân giáng phàm đầu thai đủ năm phương làm năm vị giáo chủ của năm tôn giáo, bắt đầu truyền pháp thâu nhận môn đồ. Tới lúc các giáo chủ ngưng phổ độ, rời bỏ trần gian trở về Trời, đa số giáo đồ bỏ kinh bỏ đạo khiến cho nguyên linh phân tán đạo tâm, sinh linh tương tàn làm thương tổn hỏa khí của trời đất. Kim Mẫu tại cõi trời Ngũ Lão xót thương các nguyên linh chủng tử một đi không trở lại cho nên nay ban lệnh phổ giáng chân đạo quảng độ những người có phước duyên. Để cho việc khuyến hóa được hiệu nghiệm mau chóng bèn mượn hình thức giáng cơ để phát huy đạo giáo, ban truyền lệnh Trời để khuyên răn những kẻ ngang ngược. Vì phải cấp thiết độ chúng sinh cho nên Tam Tài đồng thanh lập thánh hội để họp bàn và đã đi đến quyết nghị chung là phải đem phong cảnh Thiên Đường sáng tươi tiết lộ cùng thế gian để khuyên nhủ và hướng dẫn nguyên linh trở về chốn cực lạc, giúp Kim Mẫu độ nguyên linh trở về nguồn cội. Hy vọng chúng sinh dưới gầm Trời xem xong sách này đều hồi tâm hướng thiện, quy y đại đạo, trở lại Thiên Đường, nguyên linh được siêu thăng cõi tam thanh hợp làm một khí hưởng thú tiêu dao.
Tế Phật: Cảm tạ Đạo Tổ đã tiết lậu hết thiên cơ để cảm hóa chúng sinh. Vì thời giờ eo hẹp, tôi còn phải đem Dương Sinh trở về Hiền Đường, ngày khác lại xin tới thỉnh giáo.
Đạo Tổ: Tốt lắm. Ra lệnh cho các đạo đồng hàng ngũ chỉnh tề tiễn đưa hai vị trở lại Hiền Đường.
Đạo Đồng: Xin tuân lệnh. Kính tiễn Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh trở về Hiền Đường. Mong sớm tới thăm lại chốn này.
Dương Sinh: Cảm tạ Đạo Tổ đã ban lời chỉ giáo ngọc vàng siêu diệu, xin bái từ. Thưa, con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.
Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
Hết cuốn 2 - ID# 00000000L19 [01:09:07]